Dường như thị trường đã trở nên ngày càng quan ngại về khả năng Việt nam có thể đối mặt với một cuộc khủng hoảng tiền tệ tương tự như khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997. Vì vậy, chúng tôi đã kiểm tra tình hình từ khía cạnh: (1) cung cầu ngoại hối dựa trên cán cân thanh toán quốc tế, (2) khả năng Việt nam trụ vững nếu luồng vốn chảy ra, và (3) chính sách ngoại hối nhằm giữ tỷ giá hiệu lực ổn định.
Chúng tôi kết luận rằng có ít rủi ro giảm giá mạnh đối với tiền đồng do vốn ngắn hạn chảy ra và thay vì đó, có thể có chút ít sức ép giảm giá do nhu cầu thực tế bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại của Việt nam.
- Mối quan ngại ngày càng tăng về một cuộc khủng hoảng tiền tệ của Việt nam tương tự với khủng hoảng năm 1997 sau việc Fitch Ratings gần đây chỉnh sửa triển vọng của Việt nam xuống mức thấp hơn. Tính tới 30/05, giao dịch kỳ hạn không chuyển giao (NDF) 12 tháng đối với tiền đồng được định giá với mức thấp hơn 21,2%.
- Tuy nhiên, chúng tôi nhìn nhận thị trường kỳ hạn không chuyển giao của Việt nam là một công việc đang triển khai và nghĩ rằng tỷ giá trên thị trường NDF có thể không mang tính dự báo hoàn toàn. Theo đó, chúng tôi có kiểm tra khả năng xảy ra khủng hoảng tiền tệ từ các khía cạnh (1) cung cầu ngoại hối dựa trên cán cân thanh toán quốc tế, (2) khả năng của trụ vững Việt nam nếu luồng vốn chảy ra dựa trên cơ sở dự trữ ngoại hối và nợ nước ngoài, và (3) chính sách ngoại hối nhằm giữ tỷ giá hiệu lực ổn định.
- Về cán cân thanh toán quốc tế, nguyên nhân chủ yếu của sự giảm giá tiền đồng vào tháng 5 là việc thâm hụt thương mại tăng do cầu trong nước mạnh mẽ. Đồng thời, các luồng vốn vào trước đây của Việt nam chủ yếu là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các luồng vốn dài hạn khác, với các luồng “tiền nóng” ngắn hạn là hạn chế. Thâm hụt cán cân vãng lai nhanh chóng mở rộng cũng đáng lo, nhưng chúng tôi thấy ít rủi ro xảy ra khủng hoảng tiền tệ do luồng vốn ngắn hạn chảy ra trên quy mô lớn.
- Về khả năng trụ vững nếu các luồng vốn chảy ra, khối lượng dự trữ ngoại hối (chưa kể vàng) tính đến cuối tháng hai của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là 26,3 tỷ USD, tương đương 3,9 tháng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ - cao hơn nhiều so với mức 3 tháng thường được coi là mức tối thiểu cần thiết để kiểm soát các rủi ro cán cân vãng lai. Trong khi đó, nợ nước ngoài tính đến cuối năm 2007 là 29% GDP, thấp hơn nhiều so với mức 59,7% của Thái Lan vào cuối năm 1996 trước khi cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á xảy ra. Chỉ có 13,3% tổng số nợ nước ngoài đến hạn trong vòng một năm (tính đến cuối năm 2005), vì vậy chúng tôi cho rằng tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam là lành mạnh.
- Về chính sách ngoại hối, Chính phủ đang chuyển dần trọng tâm của chính sách kinh tế tổng thể từ tăng trưởng kinh tế sang kiểm soát lạm phát. Vì vậy, chúng tôi kỳ vọng rằng chính sách ngoại hối của NHNN cũng sẽ chú trọng lạm phát hơn là khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Việc giảm giá mạnh tiền đồng để ổn định tỷ giá hiệu lực thực tế (REER) có thể sẽ đi ngược lại điều đó do làm tăng lạm phát, và vì vậy, chúng tôi thấy ít có khả năng NHNN sẽ làm như vậy. Chúng tôi cho rằng NHNN sẽ theo đuổi REER ổn định thông qua việc kiềm chế lạm phát trong khi vẫn giữ tỷ giá danh nghĩa ổn định.
- Chúng tôi kết luận rằng đồng Việt Nam có ít rủi ro giảm giá mạnh do nhiều luồng vốn ngắn hạn rút khỏi Việt Nam, thay vì đó, đồng Việt Nam có lẽ sẽ chỉ chịu một sức ép khiêm tốn do nhu cầu thực tế bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại. Chúng tôi cũng cho rằng sức ép giảm giá đồng Việt Nam sẽ giảm dần nếu như chính sách tăng trưởng chậm lại của Chính phủ tác động tới nhập khẩu các hàng hóa trung gian và hàng hóa vốn.